5 đặc điểm pháp lý của thương nhân

0
66
5/5 - (1 bình chọn)

Thương nhân là người thực hiện hành vi thương mại độc lập, mang danh nghĩa cá nhân và vì lợi ích của bản thân. Để được coi là thương nhân, người cần thực hiện các hành vi thương mại mang tính nghề nghiệp thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Điều này cũng bao gồm việc có đầy đủ năng lực hành vi dân sự và tuân thủ quy định pháp luật về doanh nghiệp.

Cùng tìm hiểu chi tiết 5 đặc điểm pháp lý của thương nhân cùng chuyên gia từ Công ty Luật TNHH Everest qua bài viết.

1- Khái niệm thương nhân

Khái niệm thương nhân được pháp luật thương mại Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi nhận trong Luật Thương mại năm 1997. Theo quy định của khoản 6 Điều 5 Luật Thương mại năm 1997: “Thương nhân gồm cá nhân, pháp nhân, tố hợp tác, hộ gia đình có đăng ký kinh doanh hoạt động thương mại một cách độc lập và thường xuyên”.

Tương tự như vậy, khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại năm 2005 xác định: “Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh”.

Từ khái niệm thương nhân được xác định trên đây, có thể thấy thương nhân có những thuộc tính cơ bản như:

  1. Thương nhân phải thực hiện các hoạt động thương mại; thương nhân phải thực hiện các hoạt động thương mại một cách độc lập;
  2. Thương nhân phải thực hiện các hoạt động thương mại một cách thường xuyên;
  3. Thương nhân phải đăng ký kinh doanh.

Như vậy, Luật Thương mại năm 1997 và Luật Thương mại năm 2005 đã xây dựng khái niệm thương nhân dựa trên sự kết hợp của hai tiêu chí: Chủ thể và khách thể. 

Chủ thể: Tổ chức cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình có đăng ký kinh doanh

Khách thể: Hoạt động thương mại

Xem thêm: Dịch vụ pháp lý về Sáp nhập và Mua bán doanh nghiệp (M&A) của Công ty Luật TNHH Everest

2- 5 đặc điểm pháp lý của thương nhân

(a) Thực hiện hành vi thương mại

Thương nhân và hành vi thương mại có mối quan hệ logic với nhau. Điều đó được thể hiện ngay chính trong Luật Thương mại năm 1997. Khoản 1 Điều 5 Luật Thương mại năm 1997 quy định: “Hành vi thương mại là hành vi của thương nhân trong hoạt động thương mại.”, trong khi đó, khoản 6 Điều 5 cũng trong Luật này lại quy định: “Thương nhân gồm… có đăng ký kinh doanh hoạt động thương mại…” hoặc khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại năm 2005: “Thương nhân bao gồm tổ chức… cá nhân hoạt động thương mại…”. 

Như vậy, thương nhân là chủ thể thực hiện hành vi thương mại. Muốn xem chủ thể có phải là thương nhân hay không thì phải xem chủ thể đó có thực hiện hành vi thương mại hay không. Thực hiện hành vi thương mại là một đặc điểm không thể tách rời tư cách thương nhân, đây là tiêu chí quan trọng để phân biệt thương nhân với các chủ thể khác không phải là thương nhân.

Pháp luật của các nước trên thế giới đều lấy dấu hiệu “thực hiện hành vi thương mại” làm đặc điểm cơ bản trong các đặc điểm pháp lý của thương nhân (Luật Thương mại Việt Nam năm 1997, 2005; Điều 121-1 Bộ luật Thương mại Cộng hoà Pháp). Tuy nhiên, tuỳ thuộc quan niệm theo nghĩa rộng hay hẹp mà việc xác định số lượng chủ thể được coi là thương nhân ở mỗi nước có khác nhau.

(b) Thương nhân thực hiện hành vi thương mại độc lập, mang danh nghĩa chính mình và vì lợi ích chính mình

Khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 quy định, thương nhân phải hoạt động thương mại một cách độc lập. Điều 121-1 Bộ luật Thương mại Cộng hoà Pháp quy định, thương nhân phải thực hiện hành vi thương mại mang danh nghĩa chính mình và vì lợi ích của bản thân mình.

Như vậy, theo tinh thần của pháp luật thương mại, thực hiện hành vi thương mại độc lập, mang danh nghĩa chính mình và vì lợi ích bản thân mình là dấu hiệu cần thiết để xác định chủ thể tham gia vào các hoạt động thương mại có phải là thương nhân hay không. Đây là đặc điểm quan trọng thứ hai trong các đặc điểm pháp lý của thương nhân.

Trong hoạt động thương mại thường có nhiều người tham gia như người làm công ăn lương, các nhân viên quản lý điều hành. Do đó, cần phải dựa vào tính độc lập trong thực hiện hành vi của chủ thể để xác định chủ thể có tư cách thương nhân. Thực hiện hành vi thương mại độc lập, mang danh nghĩa chính mình và vì lợi ích của bản thân mình được hiểu là thương nhân thực hiện hành vi thương mại một cách tự thân, nhân danh mình, vì lợi ích của bản thân và tự chịu trách nhiệm về việc thực hiện hành vi thương mại đó. 

Khi thực hiện hành vi thương mại, thương nhân không bị chi phối bởi ý chí của chủ thể khác mà được hoạch định bởi ý chí của chính thương nhân. Việc nhân danh của thương nhân xuất phát từ quyền độc lập kinh doanh của chủ thể. 

Bởi vậy, nếu thiếu điều kiện trên thì chủ thể không có tư cách thương nhân. Ví dụ, người làm công ăn lương, người quản lý do chủ doanh nghiệp thuê, người quản lý một chi nhánh hoặc một cửa hàng thương mại … đều không phải là thương nhân.

Xem thêm: Dịch vụ pháp chế doanh nghiệp thuê ngoài (luật sư nội bộ) của Công ty Luật TNHH Everest

(c) Thực hiện hành vi thương mại mang tính thường xuyên

Hoạt động thương mại thường xuyên là một trong các dấu hiệu pháp lý không thể thiếu để xác định tư cách thương nhân. Một chủ thể thực hiện hành vi thương mại một cách độc lập, tự thân, nhân danh chính mình nhưng hành vi thương mại đó không diễn ra một cách thường xuyên, liên tục thì không thể là thương nhân.

Điều đó được phản ánh khá rõ nét trong pháp luật thương mại của các nước. Ví dụ: Theo khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 quy định: “Thương nhân… hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên..hoặc khoản 1 Điều 121-1 Bộ luật Thương mại Cộng hoà Pháp quy định, chủ thể chỉ có tư cách thương nhân nếu thực hiện hành vi thương mại mang tính nghề nghiệp thường xuyên. 

Như vậy, pháp luật thương mại thừa nhận sự cần thiết của hai yếu tố: tính nghề nghiệp và tính thường xuyên để xác định tư cách thương nhân. Để trở thành thương nhân thì các chủ thể phải thường xuyên thực hiện những hành vi thương mại, điều đó có nghĩa là chủ thể thực hiện những hành vi thương mại một cách thực tế, lặp đi, lặp lại, kế tiếp mang tính nghề nghiệp. Các chủ thể thực hiện hành vi thương mại một cách riêng lẻ sẽ không có tư cách thương nhân.

Ví dụ, một người thỉnh thoảng mua chứng khoán, mặc dù với mục đích là để tìm kiếm lợi nhuận nhưng không mang lại cho người đó tư cách thương nhân. Hoặc, một hộ gia đình có nhà ở không dùng hết cho một nhóm giáo viên thuê để luyện thi đại học trong một mùa hè thì không trở thành thương nhân. Song nếu hộ gia đình đó xây nhà để cho các doanh nghiệp thuê một cách liên tục thì có thể trở thành thương nhân.

Bên cạnh tính thường xuyên của hoạt động thương mại, khi xác định tư cách thương nhân cũng cần quan tâm đến tính nghề nghiệp. Mặc dù, trong tính thường xuyên đã hàm chứa những nội dung của tính nghề nghiệp: “Mỗi nghề nghiệp chỉ nhằm vào một loại hoạt động nào đó, làm một nghề nghiệp là hằng ngày thực hiện những hành vi thuộc loại hoạt động ấy, như bác sĩ ngày nào cũng khám bệnh kê đơn, nhà buôn lúc nào cũng tiếp xúc với khách hàng, mua bán”. Như vậy, hoạt động thương mại mang tính chất nghề nghiệp của thương nhân phải được hiểu là những hoạt động thường xuyên, liên tục được thương nhân thực hiện nhằm tạo ra những thu nhập chính cho thương nhân.

Trên thực tế, có một số người làm nhiều nghề khác nhau. Nếu nghề nghiệp chính của họ là nghề thương mại thì họ có tư cách thương nhân, ngược lại nếu nghề thương mại chỉ là nghề phụ, có nghĩa là thu nhập từ nghề thương mại chiếm tỷ lệ không đáng kể so với thu nhập từ nghề khác thì không có tư cách thương nhân.

Thương nhân phải là người hoạt động thương mại thường xuyên, liên tục. Tính chất nghề nghiệp không chỉ là dấu hiệu quan trọng để xác định tư cách thương nhân mà còn là yêu cầu bắt buộc của pháp luật thương mại Việt Nam đối với thương nhân. Nếu một thương nhân không hoạt động thương mại thường xuyên, liên tục thì có thể bị pháp luật buộc chấm dứt thương nhân thông qua hình thức thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc giải thể.

(d) Có năng lực hành vi thương mại

Năng lực hành vi là khả năng của tổ chức, cá nhân bằng những hành vi của chính bản thân mình có thể xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý. Tổ chức, cá nhân có năng lực hành vi sẽ được tham gia với tư cách là chủ thể của quan hệ pháp luật, bằng hành vi của mình có thể độc lập xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý cũng như độc lập chịu trách nhiệm về những hành vi của mình.

Năng lực hành vi trong lĩnh vực thương mại là khả năng của cá nhân, pháp nhân bằng những hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý thương mại. Điều 17 Luật Thương mại năm 1997 quy định: “Cứ nhân từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình có đủ điều kiện kinh doanh thương mại theo quy định của pháp luật nếu có yêu cầu hoạt động thương mại thì được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và trở thành thương nhân”.

Để bảo vệ lợi ích xã hội, pháp luật thương mại Việt Nam quy định một số người không được công nhận là thương nhân. Điều 18 Luật Thương mại năm 1997 quy định người không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự không thể là thương nhân. Người bị hạn chế năng lực hành vi cũng giống như người chưa thành niên đều không thể trở thành thương nhân vì họ không có khả năng nhận thức đầy đủ về hành vi của mình cũng như không có khả năng gánh vác trách nhiệm pháp lý phát sinh từ các giao dịch của họ, vì vậy để bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng, lợi ích của Nhà nước và xã hội, cũng như lợi ích của chính họ, pháp luật không công nhận họ là thương nhân.

(đ) Có đăng ký kinh doanh

Khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại năm 2005 quy định: “Thương nhân gồm… và có đăng ký kinh doanh”. Như vậy, đăng ký kinh doanh vừa có thể được nhìn nhận như là một đặc điểm của thương nhân vừa có thể coi như là một yêu cầu bắt buộc đối với cá nhân, tổ chức muốn trở thành thương nhân.

Thực chất, đăng ký kinh doanh (đăng ký doanh nghiệp) là sự ghi nhận bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về mặt pháp lý sự ra đời của thương nhân. Đăng ký kinh doanh có ý nghĩa quan trọng về mặt pháp lý cũng như về mặt thông tin:

(i) Về mặt pháp lý, đăng ký kinh doanh là sự công nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về sự ra đời của thương nhân, kể từ thời điểm được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, tư cách thương nhân được xác lập và thương nhân có quyền tiến hành các hoạt động thương mại;

(ii) về mặt thông tin, khi đăng ký kinh doanh, những thông tin chủ yếu về thương nhân (tên thương mại, trụ sở, mục tiêu ngành nghề kinh doanh…) được ghi nhận vào sổ đăng ký kinh doanh và như vậy một người nào đó muốn có thông tin về một thương nhân cụ thể thì chỉ cần đến cơ quan có thẩm quyền cũng có được những thông tin cần thiết.

Đăng ký kinh doanh được thực hiện theo trình tự pháp luật quy định, áp dụng thống nhất trong cả nước. Tuy nhiên, hiện nay do thương nhân còn tồn tại dưới nhiều hình thức doanh nghiệp khác nhau, cho nên việc đăng ký kinh doanh được thực hiện trên cơ sở những văn bản pháp luật khác nhau.

Tổ chức, cá nhân được yêu cầu cơ quan đăng ký kinh doanh hướng dẫn về thủ tục, nội dung đăng ký doanh nghiệp, cấp bản sao giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, giấy chứng nhận thay đổi đăng ký doanh nghiệp… và phải trả phí theo quy định của pháp luật.

Việc đăng ký doanh nghiệp tạo cơ sở pháp lý cho công tác quản lý nhà nước về kinh tế, xác nhận sự tồn tại và hoạt động của doanh nghiệp, cung cấp thông tin cần thiết về doanh nghiệp nhằm tạo thuận lợi cho các chủ thể tham gia quan hệ với doanh nghiệp.

Xem thêm: Dịch vụ pháp lý thành lập doanh nghiệp của Công ty Luật TNHH Everest

3- Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest

[a] Bài viết “5 đặc điểm pháp lý của thương nhân” được chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.

[b] Bài viết “5 đặc điểm pháp lý của thương nhân” có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.

[c] Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý, hoặc thuê luật sư tư vấn cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: (024) 66 527 527, E-mail: info@everest.org.vn.

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here